Trong dòng chảy lặng lẽ nhưng bền bỉ của văn học Việt Nam đương đại, Trương Đăng Dung là một hiện tượng hiếm có – một trí thức văn chương toàn diện, người không chỉ viết thơ, nghiên cứu lý luận văn học mà còn là một dịch giả cầu toàn. Hành trình văn học của ông bắt đầu từ tình yêu văn chương thời niên thiếu, được tôi luyện qua những năm tháng học tập tại Hungary và đọng lại thành những áng thơ đầy ám ảnh hiện sinh, những công trình nghiên cứu mang tính triết học sâu sắc, và những bản dịch góp phần đưa văn hóa Việt ra thế giới.
Một con người toàn tâm với văn chương
Sinh ra tại Nghệ An và sớm thể hiện năng khiếu văn chương, Trương Đăng Dung là học sinh lớp chuyên Văn đầu tiên của tỉnh trong giai đoạn 1969–1972. Mùa thu năm 1972, ông nhận học bổng sang Hungary du học. Năm 1975, khi mới 20 tuổi, ông gửi về nước bài thơ “Âm hưởng mùa hè”, được đăng trên Báo Văn nghệ – một tín hiệu sớm của hành trình văn chương bền bỉ suốt đời.
Tốt nghiệp đại học năm 1978 và trở lại Hungary làm nghiên cứu sinh vào năm 1981, Trương Đăng Dung không chỉ viết luận án tiến sĩ mà còn dịch Truyện Kiều sang tiếng Hungary. Trong một buổi sáng mùa đông năm 1983, ông viết liền mạch bài thơ “Những kỉ niệm tưởng tượng” – một bước ngoặt đánh dấu sự hiện diện của thơ ông trong không gian văn học châu Âu khi bài thơ được đăng trên tạp chí Ujirás của Hội Nhà văn Hungary.

Từ đó, Trương Đăng Dung phát triển song song ba con đường: viết thơ, nghiên cứu lý luận và dịch thuật. Ba lĩnh vực ấy không tách biệt mà cùng quy tụ nơi một cảm thức tự do, triết lý sống và thẩm mỹ tinh tế.
Thơ như là ám ảnh hiện sinh và tự do tạo nghĩa
Phải đến năm 2011, tức gần 30 năm sau khi viết “Những kỉ niệm tưởng tượng”, ông mới xuất bản tập thơ đầu tay mang chính tên bài thơ ấy. Tuy chỉ có 25 bài, tập thơ tạo tiếng vang lớn, giành Giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội và thu hút gần 50 bài nghiên cứu, phê bình từ giới học thuật và độc giả tinh hoa. Thơ Trương Đăng Dung ít nhưng giàu hàm lượng tư tưởng, khơi mở những cảm quan hậu hiện đại từ rất sớm.
Những bài thơ như “Chúa đã ra đi”, “Tôi lại nhìn thấy họ”, “Những kỉ niệm tưởng tượng”… đều hé mở một thế giới bấp bênh, nơi con người đối diện với những trống rỗng, thiếu vắng và khát khao ý nghĩa trong một đời sống nhiều mâu thuẫn. Năm 2020, ông tiếp tục công bố tập thơ thứ hai Em là nơi anh tị nạn, tiếp nối mạch thơ đầy suy niệm triết học và ám ảnh tồn sinh.
Ông tôn trọng người đọc bằng cách viết cô đọng, giàu gợi mở và không áp đặt. Thơ ông là không gian cho người đọc tự kiến tạo ý nghĩa, đúng như một quan điểm mà ông chia sẻ: “Người nghe tự hiểu, người nói tự im”.
Trong thế giới thơ Trương Đăng Dung, không có chân lý cố định mà chỉ có những “ý nghĩa thỏa thuận” – đúng như ông từng viết trong bài thơ Thỏa thuận: “thế giới bấp bênh / những ý nghĩa thỏa thuận”.
Nghiên cứu lý luận như một hành trình truy vấn triết học
Nếu thơ là vùng mơ hồ giàu cảm xúc thì nghiên cứu lý luận văn học lại là vùng sáng của tư duy hệ thống, tri thức biện chứng. Trương Đăng Dung là tác giả của nhiều công trình lý luận quan trọng như Các vấn đề của khoa học văn học, Từ văn bản đến tác phẩm văn học, Tác phẩm văn học như là quá trình, Văn bản văn học và sự bất ổn của nghĩa…
Các công trình này thể hiện tư duy sắc bén, sự thẩm thấu sâu rộng các lý thuyết văn học hiện đại và hậu hiện đại. Đặc biệt, ông đi sâu vào hai câu hỏi cốt lõi: bản chất ngôn ngữ của văn bản văn học là gì và làm thế nào để văn bản ấy sống được trong thực tế tiếp nhận mà không lệ thuộc vào chủ ý của nhà văn?
Công trình Phản ánh nghệ thuật trong mỹ học của Lukács Gyorgy (2018) và Văn bản văn học và sự bất ổn của nghĩa (2021) cho thấy rõ chiều sâu triết học trong cách ông tiếp cận vấn đề. Với cuốn sách sau, Trương Đăng Dung đã giành được sự đồng thuận tuyệt đối của Hội Nhà văn Việt Nam để nhận giải thưởng năm 2021 – một minh chứng cho tầm vóc học thuật của ông.
Không chỉ là một nhà nghiên cứu, Trương Đăng Dung là người khơi mở đối thoại. Những trang viết của ông không khép kín trong học thuật mà luôn hướng ra thế giới, mời gọi sự tham gia của người đọc trong cuộc phiêu lưu trí tuệ chung.
Dịch thuật như là một hình thức giao lưu văn hóa sâu sắc
Ngay từ những năm đầu 1980, khi còn là nghiên cứu sinh tại Hungary, Trương Đăng Dung đã dịch Truyện Kiều sang tiếng Hungary và xuất bản tại NXB Europa (1984). Không chỉ là một công việc ngôn ngữ, hành động này mang tầm vóc văn hóa – là nỗ lực kết nối giữa tinh thần Việt và thế giới, giữa truyền thống và hiện đại.
Ông không dừng lại ở một tác phẩm, mà tiếp tục dịch Lâu đài của Franz Kafka cùng nhiều công trình triết học, lý luận văn học của các nhà tư tưởng lớn như Heidegger, Jauss, Lukács, Ricoeur… Các bản dịch và giới thiệu này được tập hợp trong Lí luận văn học như là siêu khoa học (2025) – một kho tư liệu quý giá cho người nghiên cứu và giảng dạy văn học tại Việt Nam.
Trương Đăng Dung chia sẻ: “Tôi không có bí quyết dịch thuật gì đặc biệt nhưng luôn ý thức một cách nghiêm túc nhất về công việc này. Tôi hiểu rằng, dịch không phải là công việc chuyển ngữ thuần túy.” Với ông, dịch thuật là sự gặp gỡ giữa các tinh thần, giữa những người phát và nhận thông điệp, vượt qua những rào cản văn hóa, ngôn ngữ và tín ngưỡng. Đó là một dạng đối thoại văn hóa mang tính khai phóng và nhân văn sâu sắc.
Tỏa sáng trong tự do
Với một hành trình văn chương như vậy, có thể nói Trương Đăng Dung là hình mẫu của người trí thức tự do. Ông không đóng khung mình trong một lĩnh vực, một phương thức thể hiện nào mà luôn tìm kiếm, mở rộng, truy vấn và làm mới mình. Ông sống thơ, viết thơ, nghĩ bằng lý thuyết và dịch như một cách để đối thoại văn hóa.
Như một người từng viết về ông đã nhận xét, Trương Đăng Dung là người “quyết liệt đi về phía tự do. Chỉ có tự do mới đủ sức tỏa chiếu ‘thứ ánh sáng làm cho gương mặt ta mãi mãi là gương mặt con người’.”
Trong một thời đại mà những giá trị đang không ngừng bị thách thức và tái định hình, hành trình văn chương của Trương Đăng Dung chính là minh chứng sống động cho sức mạnh của tự do trong tư tưởng, trong sáng tạo và trong đối thoại nhân văn.









